Biography
INTRODUCTION
Ngài Sùng Sơn Hạnh Nguyện, thế danh là Lý Đức Nhân (Duk In Lee). Ngài sanh ngày 04 tháng 07 năm Đinh Mẹo (01.08.1927) trong một gia đình Cơ đốc Tân giáo (Đạo Tin Lành), tại Thành phố Seun Chun, Bình Nhưỡng, Bắc Hàn. Vào thời bấy giờ, nước Triều Tiên (Hàn Quốc) nằm dưới sự cai trị của quân đội Nhật Bản, các quyền tự do về chánh trị và văn hóa đều bị cấm đoán.
Biography
Năm 17 tuổi (1944), Ngài tham gia phong trào đấu tranh đòi độc lập cho nước nhà, chưa đầy vài tháng bị cảnh sát Nhật bắt và kết án tử hình. Tuy nhiên, Ngài tìm cách trốn khỏi nhà tù cùng hai người bạn, lấy nhiều ngàn Đô la của cha mẹ, vượt vòng kiểm soát gắt gao của quân biên phòng Mãn Châu, để tham gia lực lượng quân đội Hàn quốc Tự do, nhưng cuộc mưu toan không thành. Ngài cùng các bạn trở lại học xong Trung học. Nhưng nước nhà biến loạn. Rất nhiều gia đình chết thảm. Đất nước chia đôi.
Năm 1946, ngài quyết định từ bỏ quê hương vào Nam Hàn. Từ đó ngài không bao giờ gặp mặt cha mẹ nữa. Vào thời Đệ nhị thế chiến, Ngài học Triết Tây tại Đại học Đông Quốc (Dong Guk), tình hình ở Nam Hàn càng trở nên hỗn loạn… Một ngày nọ, Ngài nhận ra rằng không thể giúp đỡ dân tộc mình trọn vẹn qua con đường hoạt động chánh trị hoặc học vấn. Do vậy, Ngài quyết chí lên núi ẩn tu, nguyện không xuống núi nếu chưa tỏ ngộ chân lý tối hậu.
Suốt 3 tháng, Ngài nghiên tầm Khổng giáo, và Lão giáo, nhưng không thỏa mãn. Sau đó, được một Pháp hữu tu trong ngôi chùa nhỏ trên núi, trao cho quyển kinh Kim Cương, Ngài bắt đầu tiếp xúc Phật giáo. Khi đọc tới câu : “Phàm có hình tướng đều là hư dối. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”, tâm trí ngài bỗng nhiên sáng suốt lạ thường. Liên tiếp những tuần sau đó, Ngài trở nên say mê trong việc tụng đọc các bộ kinh Phật. Cuối cùng Ngài được nhận làm tu sĩ xuất gia và được thụ phong Đại giới (Tỳ khưu và Bồ tát) vào tháng 10/1948.
Sau khi chuyên sâu và thấu rõ nghĩa lý diệu huyền các bộ kinh Phật, Ngài nghĩ rằng điều chính yếu giờ đây là phải nỗ lực tu hành. Vì thế, sau lễ thụ giới mười hôm, Ngài liền lên núi Viên Giác và bắt đầu khóa ẩn tu khổ hạnh đơn độc 100 ngày. Ngài chỉ lót dạ bằng đọt tùng phơi khô tán bột, hoặc rau rừng, cà sống. mỗi ngày trì chú Đại Bi hai mươi giờ, và thường tắm trong nước giá lạnh. Thật là một lối tu rất khắc nghiệt.
Chẳng bao lâu, trong tâm Ngài những mối nghi ngờ vọng tưởng dấy khởi: Tại sao ta lại cần sống ẩn dật thế này? Tại sao phải tu khổ hạnh? Ta không xuống đồng bằng, ở một ngôi chùa nhỏ hẻo lánh nào đó, cưới vợ, sống trong mái ấm hạnh phúc gia đình và tu tập tiệm pháp như các vị tân Tăng tại Nhật Bản tốt hơn không?
Suốt đêm, những ý nghĩ này trở thành sức mạnh lôi cuốn ngài thoái chuyển muốn xách gói xuống núi. Nhưng sáng hôm sau thần trí định tỉnh, Ngài kiên quyết gạt bỏ ý định ấy. Được vài hôm, tâm trạng đó lại diễn ra trong nhiều tuần lễ, Ngài đã chín lần do dự, bị thử thách như thế. Trải qua 50 ngày, thân Ngài rất suy kiệt, tâm lý phức tạp. Hằng đêm hình ảnh ma quái hiện ra trong bóng tối với những cử chỉ khêu gợi lòng tham dục. Cảnh ác quỷ núp sau lưng giơ những ngón tay lạnh buốt chụp quanh cổ Ngài, những con bọ hung to lớn gặm đôi chân Ngài, cọp beo, rắn rít quanh quẩn trước mặt, tạo nên bao nỗi kinh hoàng không ngớt.
Hiện tượng này kéo dài suốt một tháng, rồi bắt đầu chuyển sang trạng thái hân hoan khác lạ. Đôi khi Ngài thấy Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chư Bồ Tát trong y phục tuyệt đẹp đến sách tấn tu tập. Có lần Ngài quỳ suốt đêm, mệt mỏi rồi ngủ quên, Bồ Tát Quán Âm nhẹ nhàng đánh thức. Cuối ngày thứ 80, Ngài khỏe hẳn, da thịt xanh xao như lá thông. Một hôm, chỉ còn tuần lễ là kết thúc kỳ ẩn tu, Ngài ra ngoài để Thiền hành theo lối mòn nhỏ hẹp trong núi. Bỗng nhiên có hai cậu bé khoảng 11, 12 tuổi xuất hiện bên đường, cúi chào ngài rồi đi theo sau. Chúng trang phục áo quần nhiều màu sắc, với vẻ mặt đẹp đẽ siêu phàm. Ngài hết sức ngạc nhiên và cảm thấy có một năng lực hoàn toàn sáng suốt, tự nghĩ: “Chả lẽ quỷ thần hiện ra chăng? Họ đi bộ cùng nhau trong im lặng khoảng nửa giờ, khi ngài trở lại để vào khoá lễ sám thì không thấy chúng đâu nữa.”
Có lần đang tụng kinh, Ngài thể nhập ở cảnh giới không tịch, vẫn nghe rõ tiếng mõ lời kinh mình đang tụng. Ngài đã an trú trong trạng thái ấy một hồi lâu. Khi tâm thức trở về thân xác thì Ngài nhận ra rằng, cảnh núi sông vạn vật Ngài được thấy, âm thanh ngài được nghe, đều lưu xuất từ Chân tánh của mình. Chúng hiện ra trong tính Như Thật. Đêm đó Ngài ngủ một giấc ngon lành.
Sáng hôm sau thức dậy, Ngài trông thấy một người khách vác hành lý lên núi, vài con quạ bay ra khỏi lùm cây, liền cảm tác bài thơ như sau:
Đường dưới núi Viên Giác - không NAY Khách vác đồ lên non - không XƯA Chân bước suốt XƯA NAY : ‘Tốc ! Tốc !’ Quạ bay lên cây kêu : ‘Qua ! Qua !’
Viên Giác Sơn hạ, phi kim lộ Bối khỏa hành khách, phi cổ nhơn Trạc, trạc ! Lý thanh quán cổ kim Khả, khả ! Ô thanh phi thượng thụ
Sau khi kết thúc kỳ ẩn tu, Ngài xuống núi, đến bái kiến Thiền sư Cổ Phong là vị được nối pháp từ Tổ sư Mãn Không (1872 - 1946 ). Cổ Phong là một Thiền sư rất nổi tiếng độc đáo và nghiêm khắc nhất tại Hàn Quốc .
Lúc bấy giờ, Thiền sư Cổ Phong đang giáo hóa đồ chúng tại một Thiền viện, Thiền sư nhận thấy giới tu sĩ không được nhiệt tình tu cho lắm để có những Thiền sinh ưu tú.
Ngài Sùng Sơn muốn Thiền sư Cổ Phong khảo hạch sự tỏ ngộ của mình, vì thế sau khi đảnh lễ Cổ Phong, Ngài cầm cái mõ và hỏi: “Bạch sư phụ, cái này là gì ?”
Cổ Phong lấy cái mõ đánh vào nó và nói: “Ông hiểu rồi chứ !” Hành động này đúng như ngài Sùng Sơn mong đợi.
Ngài liền thưa: Xin cảm ơn, Con thực hành Thiền như thế nào ?
Cổ Phong nói: Có ông Tăng hỏi Thiền sư Triệu Châu: ‘Tại sao Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc?’ Triệu Châu đáp: ‘Cây bách trước sân’. Nghĩa này là gì?
Ngài hiểu, nhưng không biết trả lời ra sao, bèn nói: “Con không biết” .
Cổ Phong bảo: Chỉ giữ lấy Tâm Không Biết. Đó là chân thực hành Thiền.
Mùa Xuân và Hè năm đó, Ngài dành nhiều thời gian cho việc hành thiền. Trong mùa Thu, Ngài nhiếp niệm tĩnh tọa suốt 100 ngày tại Thiền viện Tu Đức, đọc Ngữ lục và Pháp thoại. Đến mùa Đông, nhận thấy các tu sĩ ở Thiền viện này giải đãi trong việc tu thiền, nên Ngài quyết định phải làm một điều gì để thức tỉnh họ.
Một đêm, đến phiên trực, (vì đã có vài vụ trộm trong chùa) Ngài giả làm kẻ trộm vào nhà bếp lấy tất cả soong chảo xếp thành vòng tròn trước sân. Đêm sau, Ngài xoay tượng Phật tại chánh điện, úp mặt Phật vào vách, rồi lấy chiếc lư trầm cổ là báu vật quốc gia, đem treo trên cây hồng vàng trong vườn. Sáng ra, cả Thiền viện bàn tán xôn xao, mọi người cho rằng có những tên trộm liều lĩnh hoặc là những vị thần tiên trên núi xuống nhắc nhở họ trong việc tu tập.
Vào đêm thứ 3, Ngài đến khu vực các vị sư Ni, lấy 70 đôi dép bày ra giống một cửa tiệm giày dép, để trước phòng Thiền sư Đức Sơn. Nhưng lúc ấy có một cô Ni thức giấc ra ngoài. Khi thấy bị mất dép, cô Ni ấy đánh thức mọi người và họ phát hiện ra Ngài đã làm chuyện kỳ lạ trên. Hôm sau, cả Thiền viện nhóm chúng lại để xử lý trường hợp của Ngài. Mọi người đồng ý cho Ngài ở lại nhưng với điều kiện phải sám hối với các bậc trưởng thượng nơi đây.
Trước hết, Ngài đi đến đảnh lễ Thiền sư Đức Sơn, vị ấy bảo : “Hãy duy trì tu tập thật tốt”. Rồi Ngài đến chỗ vị Ni trưởng, bà nói: “Thanh niên như ông đã gây ra nhiều chuyện làm huyên náo trong Thiền viện quá lắm !”
Ngài cười và nói: “Cả thế giới này đầy ắp sự huyên náo rồi, còn bà làm gì, thưa Ni trưởng ?”. Bà ta không trả lời được.
Kế đó, Ngài đến Thiền sư Xuân Thành, người mà có những hành động phóng khoáng và ngôn ngữ táo tợn nổi tiếng. Ngài đảnh lễ và thưa: “Con đã giết tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Còn ngài làm gì thưa Thiền sư ?” Xuân Thành nói: “A ha !” và nhìn sâu vào đôi mắt Ngài rồi bảo: “Ông đã thấy gì ?” Ngài đáp: “Con hiểu rồi !” Xuân Thành hỏi: “Tất cả chỉ có thế phải không ?” Ngài đáp: “Có con chim gáy đang hót trong bụi cây bên ngoài cửa sổ.”
Sau một hồi đối đáp bằng Thiền ngữ, Ngài trả lời không chút khó khăn. Thiền sư Xuân Thành la lớn: “Ông đã Ngộ rồi ! Ông đã Ngộ rồi !” Tin này lan truyền nhanh chóng và từ đó mọi người trong Thiền viện mới chợt hiểu những gì xảy ra mấy bữa trước. Vào ngày 15 tháng giêng, trên đường đến Seoul để cầu Thiền sư Cổ Phong kiểm chứng sự đạt ngộ của mình lần nữa, Ngài đã tham vấn với Thiền sư Kim Phong và Kim Ngộ. Cả hai vị này đều Ấn khả cho Ngài là một Thiền sinh đã đạt ngộ. Lúc đến chùa của Thiền sư Cổ Phong, Ngài mặc chiếc áo vá nhiều mảnh và mang theo một túi xách cũ kỹ. Ngài đảnh lễ Thiền sư Cổ Phong và thưa: Tất cả chư Phật cuộn tròn thành một bó xác chết. Làm cách nào để tổ chức một lễ tang?
Cổ Phong bảo: “Hãy chứng minh !”
Sùng Sơn thọc tay vào túi xách, lấy ra một con mực khô và chai rượu rồi nói: “Đây là những cặn thừa từ một phần đám tang.”
Cổ Phong nói: “Thế thì cho ta chút rượu.”
Sùng Sơn đáp: “Được, xin thầy đưa ly đây.”
Cổ Phong chìa lòng bàn tay ra. Sùng Sơn đưa thẳng cái chai và nói: Không phải ly, nó là bàn tay của lão sư.
Kế đó Ngài Sùng Sơn đặt chai trên sàn nhà. Thiền sư Cổ Phong cười và nói: “Không tồi. Ngươi đã làm hết mọi chuyện, nhưng ta có vài câu hỏi thêm”.
Sau khi đối thoại bằng Thiền ngữ và đưa ra những Công án khó nhất trong số 1.700 công án nổi tiếng của Thiền tông và được Ngài trả lời thông suốt; Thiền sư Cổ Phong nói: Được rồi, đây là câu hỏi cuối cùng. ‘Chuột ăn thức ăn của mèo, nhưng cái bát của mèo bị vỡ‘. Điều này có yếu nghĩa gì ?
Ngài đáp: Trời xanh, cỏ xanh.
Thiền sư Cổ Phong lắc đầu nói: “Không”.
Ngài giật nẩy mình. Trước đây ngài đã đáp án không sai một câu nào cả. Mặt Ngài đỏ dần lên, Ngài trả lời câu này đến câu khác, nhưng Thiền sư Cổ Phong vẫn cứ lắc đầu. Cuối cùng Ngài la lớn: Đã có ba vị Thiền sư ấn chứng cho con, sao Ngài lại bảo con nói sai ?!
Thiền sư Cổ Phong vẫn thản nhiên hỏi: Nó nghĩa thế nào ? Hãy nói ! Suốt 50 phút, Thiền sư Cổ Phong và Ngài ngồi đối diện nhìn chầm chập giống như hai con mèo đực gườm nhau. Với sự im lặng sấm sét. Bỗng nhiên Ngài nói: “Chính Thật Như Vậy đó”.
Khi nghe lời này với khuôn mặt tràn đầy vui sướng, Thiền sư Cổ Phong rơm rớm nước mắt, ôm chầm lấy Ngài và nói: “Ngươi là bông hoa, còn ta là con ong”.
Ngày 25.1.1949, Thiền sư Cổ Phong chính thức trao truyền Chánh pháp Nhãn tạng duy nhất cho Ngài vào lúc 22 tuổi.
Từ đó, Ngài Sùng Sơn trở thành Thiền sư nối pháp đời thứ 78, trong dòng Thiền Tào Khê tại Hàn Quốc. Sau lễ truyền pháp, Thiền sư Cổ Phong phán bảo: “Trong 3 năm tới, ông phải luôn luôn im lặng. Ông là một người tự do tự tại, năm trăm năm sau, chúng ta sẽ gặp nhau”.
Sau đó, nhà nước ban hành lệnh tổng động viên ngài bị bắt buộc phải gia nhập quân đội 5 năm (1952-1957) trong ngành Tuyên Úy Phật giáo. Khi giải ngũ, ngài liền cạo tóc trở về nếp sống thiền môn, nhưng Cổ Phong nhìn chằm chằm vào ngài và nói: “Không tốt, Ông hãy còn con mắt nhà binh. Hãy tẩy trừ nó đi!” Ngài lại phải tìm nơi nỗ lực tu hành và nhập thất 100 ngày.
Năm 1957, Thiền sư Cổ Phong lâm bệnh nặng, không thể đảm nhiệm trọng trách Viện chủ Chùa Hoa Khê và hướng dẫn đồ chúng tu học, Thiền sư liền cử Ngài làm trụ trì kế thừa.
Một ngày nọ, Ngài nghe đồn tại một ngôi chùa Nhật ở Seoul (Hán Thành) còn giữ năm trăm bộ hài cốt quân Nhật tử trận, vì gặp nhiều khó khăn về tài chánh, nên ngôi chùa này thuộc quyền quản lý của một số cư sĩ Phật tử Hàn Quốc. Họ không muốn giữ những bộ xương đó tại chùa. Vì hình ảnh quân đội Nhật tiến công đánh chiếm và thống trị Hàn Quốc, dân chúng phải chịu bao gian khổ lầm than, luôn dằn vặt tâm hồn họ.
Khi nghe như thế, Ngài liền đến đó và bảo với vị quản lý Chùa rằng: Dù là người Nhật hay người Hàn thì xương họ cũng như nhau. Xương vẫn là xương người.
Rồi Ngài mang tất cả những bộ xương ấy về chùa mình. Mỗi ngày, Ngài đều tụng kinh, niệm Phật, cầu nguyện cho những vong hồn bất hạnh.
Vài năm sau, Hàn Quốc và Nhật Bản tái thiết quan hệ ngoại giao, khi đó có nhiều người Nhật đến Hàn Quốc để tìm lại những bộ xương thân nhân quá cố. Cảm động trước tấm lòng vị tha cao cả của Ngài, họ liền cung thỉnh ngài đến Nhật Bản để xiển dương Chánh pháp. Từ đây, Ngài bắt đầu công việc truyền bá Thiền tông ở nước ngoài. Khi hay tin Ngài đến Nhật Bản, nhiều người Hàn Quốc cảm thấy tiếc nuối và than rằng: “Chỉ vì mấy bộ xương mà chúng ta đã mất đi một bậc Thiền sư vĩ đại”. Sau khi hoằng hóa tại Nhật hơn mười năm, vào tháng 5.1972, Ngài đến Hoa Kỳ tiếp tục sự nghiệp truyền đăng của mình.
Lúc đầu, Ngài thuê phòng trọ, làm việc tại một tiệm giặt ủi ở Providence, Rhode Island. Ngài viết chữ Zen to tướng trên giấy, dán tại cửa phòng, một số sinh viên ở Đại học Brown gần đó đến trò chuyện tìm hiểu, Ngài hướng dẫn họ tu Thiền. Dần dần họ kết thân, lui tới tu học và không để Ngài đi làm nữa, họ tự trả tiền phòng cho Ngài. Cuối cùng họ xin làm đệ tử của Ngài.
Từ đó Thiền âm vang dội, Ngài đã đi khắp Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới, để giảng dạy và hướng dẫn hàng vạn người tu tập Thiền tông, hàng trăm người tỏ ngộ được Ngài ấn khả và hàng chục người được truyền Tâm pháp trở thành Thiền sư.
Ngài đã thành lập hơn 120 cơ sở Phật giáo, bao gồm các Thiền viện và trung tâm Thiền tại Hàn Quốc, Hồng Kong, Mã Lai, Trung Đông, Anh, Đức, Nga, Bỉ, Hoa Kỳ, Nam Phi và Ba lan v.v…
Ngài đã cho xuất bản một số tác phẩm về Thiền:
- Rơi Tro Trên Thân Phật (Dropping Ashes On The Buddha),
- Thế Giới Nhất Hoa (The Whole World Is A Single Flower),
- Mười Cổng (Ten Gates),
- Chỉ Không Biết (Only Don‘t Know),
- Xương Hư Không (Bone of Space)
- Thiền Tông Chỉ Nam ( The Compass of Zen)…
Là vị Thiền sư đạt ngộ và thân chứng diệu lý Thiền tông, Ngài có sức cảm hóa kỳ lạ đối với các môn đồ và mọi giới, nhất là những tín hữu Cơ Đốc giáo. Trong nhiều năm Ngài đã hướng dẫn họ hành Thiền tại Tu viện Gethsemani, Tu viện Trappist của những tu sĩ dòng kín ở Kentucky. Ngài là một trong những Thiền sư Hàn Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xiển dương Thiền tông tại phương Tây và thế giới.
Nhận thấy tuổi hạc đã cao, bệnh duyên chi phối, dấu chân du phương của ngài tung rải Ánh đạo vàng đã trải dài theo bóng ngả đường chiều của cuộc đời giả hợp, sắp đến hồi kết thúc. Hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh đã hoàn mãn, ngài bèn giao phó trách nhiệm gánh vácn Phật sự cho các môn nhơn đệ tử kế thừa. Ngài trở về Seoul, quê hương chốn Tổ vào năm 2002 để tịnh dưỡng cuối đời và xả báo thân tịch diệt tại Tổ đình Hoa Khê, núi Viên Giác vào ngày 30 tháng 11 năm 2004. Nhằm ngày 19 tháng 10 năm Giáp Thân,Trụ thế 78 tuổi, Tăng lạp 57. Kế thừa Đạo nghiệp Tông phong Tổ vị 56 năm.
(Thích Giác Nguyên)
Teaching
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Self).“Ta là gì ?” (What am I ?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng. Nếu hướng đi rõ ràng, thì đời sống được trong sáng. Tại sao ta hành Thiền? Tại sao ta ăn uống mỗi ngày? Quý vị phải khám phá điều đó. Hãy buông hết tất cả ý tưởng, điều kiện và vị trí của quý vị, từng giây phút hành động thật chính xác. Ở đó, không có chủ thể, đối tượng, không bên trong, bên ngoài. Trong hay ngoài cũng trở thành Một. Như vậy hướng đi của quý vị và huớng đi của tôi, hành động của quý vị và hành động của tôi đều giống nhau. Đây được gọi là Đại Bồ tát Đạo.
Khi buông hết tất cả , quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt: Đỏ đến hiện đỏ, trắng đến hiện trắng. Ai đói cho ăn. Ai khát cho uống. Mọi vật được phản chiếu trong tấm gương sáng này. Rồi thì quý vị có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm và nghĩ một cách rõ ràng. Cây xanh, trời biếc; muối mặn, đường ngọt. Chó sủa “gâu, gâu!”. Đúng thật như thế, mọi vật là Chân lý. Do đó, quý vị cũng là Chân lý.
Vậy làm thế nào vận dụng Chân lý này một cách chính xác? Làm cách nào Sự sống của bạn đúng đắn ? Từng giây phút, quý vị phải lãnh hội vị trí đúng, quan hệ đúng và tác dụng đúng. Khi quý vị đói, làm gì? Thấy người đói, quý vị phải làm gì ? Nếu gặp Phật, quý vị làm gì? Quý vị ném bỏ tàn thuốc nơi đâu? Hầu hết mọi người hiểu tất cả điều này, nhưng họ không làm đúng. Chúa Ki Tô nói :“ Ta là Đường đi, Lẽ thật và Sự sống”. Đó là điểm giống nhau.
Hầu hết người ta hiểu biết (bằng trí não) quá nhiều. Sự hiểu biết này không thể giúp cho sự sống của quý vị. Descartes nói :“ Tôi suy tư, vì thế tôi hiện hữu.” Do vậy, “Tôi” sáng tạo ra “Tôi”. Nếu không suy tư, thì là gì? Ngay như quý vị có kinh nghiệm nhiều mà không đạt tới nhất thể trong sạch sáng suốt, thì tất cả sự hiểu biết và kinh nghiệm đó, không thể giúp cho sự tu tập. Bởi vậy, thực hành Thiền không thuộc sự hiểu biết. Thiền nghĩa là chỉ đi thẳng “Không Biết.”
Triệu Châu có lần hỏi Thiền sư Nam Tuyền: Đạo là gì ? Nam Tuyền đáp: “Tâm bình thường là Đạo”. Triệu Châu lại hỏi: “Như thế cần phải giữ gìn không?” Nam Tuyền đáp: “Nếu giữ là sai”. Triệu Châu thưa: “Nếu không giữ, làm sao biết được Đạo ?”
Nam Tuyền đáp: “Đạo thì chẳng thuộc biết hay không biết. Biết thì vọng tưởng. Không biết thì vô ký, (chẳng ghi nhận). Nếu hoàn toàn thể nhập Đạo, nó giống như hư không, sáng suốt và rỗng lặng, há có thể gượng cho là phải trái, đúng sai sao ?”
Triệu Châu nghe xong liền tỏ ngộ. Vậy Triệu Châu đạt được điều gì ? Thường thì các Thiền sinh muốn “ chấp giữ ” Đó là sai lầm lớn. Thiền có nghĩa là khi quý vị đang làm một điều gì, làm ngay đi. Quý vị phải nhận ra rằng hiểu biết là ảo giác, lầm tưởng. Đừng bị trói cột trong sự hiểu biết ! Thực hành chính xác có nghĩa“ làm thế nào sự hiểu biết của quý vị được “thể hội” và trở thành “triệt Ngộ”. Đó là lẽ thật Tâm Bình Thường.
Vậy, tại sao phải lập ra 365 Công án? Từ khi mọi người hiểu biết quá nhiều, chúng tôi phải sử dụng “thuốc trị hiểu biết”. Triệu Châu đã đạt đến điều gì ? Nếu mở miệng, thật sai lầm, còn như quý vị không suy nghĩ, câu trả lời rõ ràng và trong sáng luôn luôn ở trước quý vị .
Vậy làm thế nào Chân tánh của quý vị tác dụng một cách đúng đắn và cứu độ tất cả chúng sanh ?
Đạo được gọi là “ Mẹ Tối cao” : Trống rỗng, vô tận, Sanh ra thế giới vô cùng, Luôn luôn hiện hữu trong ta, Có thể sử dụng mọi cách như ý muốn.
Thế nào là Đạo sanh ra thế giới vô tận ? Đây là câu hỏi chung, một điểm chung .
Trong sự sưu tầm góp nhặt này, có những Công án Phật giáo, của Ki Tô giáo, của Lão giáo, và Công án Thiền. Có những Công án cũ và mới, nhưng chúng đều giống nhau: Tất cả lời lẽ súc tích khéo léo này nhằm chỉ dạy hướng đi chính xác. Nếu quý vị bị trói cột với những lời hay, ý đẹp, hoặc nắm giữ những suy tưởng thì không thể đạt tới nghĩa thật của chúng . Bởi vậy, buông hết tất cả ý tưởng khái niệm, điều kiện và tình huống, rồi tâm của quý vị được trong sáng như hư không. Sau đó câu trả lời đúng đến bất cứ Công án nào cũng được lưu xuất từ Chân tánh. Đây là Tuệ Giác. Khi quý vị cố gắng thực hành một Công án.
Nếu không lãnh hội được, đừng lo lắng! Đừng bị trói cột bởi Công án, và cũng đừng cố gắng “hiểu” Công án. Chỉ tiến thẳng “Không Biết”: Cố gắng, cố gắng, cố gắng ! đến một vạn năm không dừng. Như vậy quý vị đạt đến Con đường, Lẽ thật và Sự sống. Có nghĩa là từng giây phút giữ vị trí đúng, quan hệ đúng và tác dụng đúng. Đó là Đại Bác ái, Đại Từ bi, và Đại Bồ tát Đạo.
Chẳng lập văn tự, Biệt truyền ngoài Giáo. Chỉ thẳng tâm người, Thấy Tánh thành Phật.
Nếu quý vị mong vượt qua cửa này, đừng dấy khởi vọng tưởng. Đức Phật dạy: “Tất cả các pháp do tâm tạo”. Khi không chấp giữ tâm, làm sao có các pháp? Tôi hy vọng hằng ngày quý vị đừng tạo tác, hãy thực hành thật chính xác từng giây phút, đạt tới 365 Công án được Tỏ Ngộ, và phục vụ chúng sanh từ khổ đau.
Trời cao luôn luôn xanh thẳm,
Nước chảy mãi về đại dương.
RECORDS:
📖 Muốn tỏ ngộ là một sai lầm lớn
- sect
- None